Đặt tên theo Dmitri Mendeleev, người tạo ra Bảng tuần hoàn
Numit după Dmitri Mendeleev, care a creat Tabelul Periodic
Đặt tên theo Alfred Nobel, nhà hóa học người Thụy Điển khám phá ra thuốc nổ và sáng lập giải thưởng Nobel
Numit după Alfred Nobel, chimist suedez care a descoperit dinamita şi fondator al Premiului Nobel
Đặt tên theo Ernest O. Lawrence, người phát minh ra máy gia tốc
Numit după Ernest O. Lawrence, inventator al ciclotronului
Đặt tên theo Ernest Rutherford, nhà vật lí học và hóa học đến từ New Zealand
Numit dupa Ernest Rutherford, fizician si chimist din Noua Zeelanda
Đặt tên theo thành phố Dubna ở Liên bang Nga
Numit după oraşul rusesc Dubna
Đặt tên theo Glenn Seaborg, nhà vật lí hạt nhân người Mĩ đạt giải Nobel
Numit dupa Glenn Seaborg, chimist nuclear american si castigator al premiului Nobel
Đặt tên theo Niels Bohr, nhà vật lí người Đan Mạch
Numit după Niels Bohr, fizician danez
Từ tiếng La-tinh <i>Hassias</i> có nghĩa là Hessen, một bang của Cộng hòa Liên bang Đức
Din cuvântul latin <i>Hassias</i> însemnând Hess, stat german
Đặt tên theo Lise Meitner, nhà vật lí người Áo
Numit după Lise Meitner, fizicianul austriac
Đặt tên theo Darmstadt, một thành phố của Cộng hòa Liên bang Đức
Numit după oraşul german Darmstadt
Đặt tên theo Wilhelm Conrad Röntgen, nhà vật lí người Đức
Numit după Wilhelm Conrad Röntgen, fizicianul german
Đặt tên theo nhà du hành vũ trụ Nicolaus Copernicus
Numit după astronomul Nicolaus Copernicus
Cái tên được đặt theo tên tiếng Nhật phổ biến của Nhật Bản
Numele provine din denumirea obişnuită pe care japonezii o dau Japoniei
Đặt tên theo nhà sáng lập của Phòng thí nghiệm Các phản ứng hạt nhân Flerov, nhà vật lí người Liên Xô Georgy Flyorov
Numit după fondatorul Laboratorului Flerov de Reacţii Nucleare, fizicianul sovietic Georgy Flyorov
Đặt tên theo tỉnh Moskva nơi có thành phố Dubna
Numit după oblastul Moscova unde este localizată Dubna
Đặt tên theo Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore tại thành phố Livermore, California
Numit după Lawrence Livermore National Laboratory, oraşul Livermore, California
Đặt tên theo bang Tennessee
Numit după regiunea Tennessee
Đặt tên theo nhà vật lí hạt nhân người Nga Yuri Oganessian
Numit după fizicianul nuclear rus Yuri Oganessian
Henry là người đầu tiên phân biệt được Hiđro từ các khí khác; trong năm 1766, ông đã điều chế nó bằng phản ứng giữa axit clohiđric với kẽm.<br><br>Năm 1670, nhà khoa học Anh Robert Boyle đã quan sát và thấy hiđro tạo ra mạnh mẽ từ phản ưng axit với kim loại.<br><br>Nhà hóa học Pháp Antonie Lavoisier sau này đặt tên nguyên tố hiđro vào năm 1873.
Henry Cavendish a fost primul care a făcut distincţia între hidrogen şi celelalte gaze în 1766 când l-a produs în urma reacţiei dintre acidul hidrocloric şi zinc.<br><br>In 1670, omul de ştiinţă englez, Robert Boyle a observat producerea lui prin reacţia acizilor tari cu metalele.<br><br>În 1783 omul de ştiinţă francez Antoine Lavoisier a numit acest element hidrogen.
Nhà thiên văn học người Pháp Jules Janssen đã thu được bằng chứng đầu tiên về helium trong lần nhật thực năm 1868.<br><br>Norman Lockyer và Edward Frankland đề xuất tên helium cho nguyên tố mới.<br><br>Năm 1895, Sir William Ramsay phát hiện ra helium trong khoáng chất uranium cleveite.<br><br>Nó được Per Teodor Cleve và Abraham Langlet phát hiện độc lập trong khe đá.
Astronomul francez Jules Janssen a obţinut prima evidenţă a heliului în timpul eclipsei solare din1868.<br><br>Norman Lockyer şi Edward Frankland au sugerat numele de heliu pentru noul element.<br><br>În 1895, Sir William Ramsay a descoperit heliul în cleveit mineralul uraniului.<br><br>El a fost descoperit în mod independent în cleveite de către Per Teodor Cleve şi Abraham Langlet.
Lithium được tìm thấy bởi ông Johann Arfvedson vào năm 1817 khi ông đang phân tích các loại quặng khác nhau trên đảo Uto, Thuỵ Điển. Dạng nguyên chất của nguyên tố này được tách ra bởi nhà nghiên cứu hoá học người Thuỵ Điển William Thomas Brande và nhà nghiên cứu hoá học người Anh Quốc Humphry Davy và họ tự làm điều đó một mình. Năm 1855, Lithium với số lượng lớn hơn được làm ra bằng cách sử dụng dòng điện để tách Lithium Chloride bởi ông Robert Bunsen và ông Augustus Matthiessen
Litiumul a fost descoperit de către Johann Arfvedson în 1817 în timp ce acesta analiza minerale de pe insula Uto din Suedia. Metalul pur a fost izolat anul următor atât de către chimistul suedez William Thomas Brande, cât și de chimistul Sir Humphry Davy, care au lucrat independent. În 1855, cantități mai mari de litiu au fost produse prin electroliza clorurii de litiu de către Robert Bunsen și Augustus Matthiessen.
Louis-Nicolas Vauquelin đã phát hiện ra berili ở dạng oxit trong cả beryl và ngọc lục bảo vào năm 1798.<br><br>Friedrich Wöhler và Antoine Bussy độc lập phân lập berili vào năm 1828 bằng phản ứng hóa học của kali kim loại với berili clorua.<br><br>Quy trình thương mại thành công đầu tiên để sản xuất berili được phát triển vào năm 1932 bởi Alfred Stock và Hans Goldschmidt.
Louis-Nicolas Vauquelin a descoperit beriliul sub formă de oxid atât în beril cât și în smaralde în 1798. Friedrich Wöhler și Antoine Bussy au izolat independent beriliul în 1828 prin reacția chimică a potasiului metalic cu clorura de beriliu. Primul proces comercial de succes pentru producerea beriliului a fost dezvoltat în 1932 de Alfred Stock și Hans Goldschmidt.
Các hợp chất bo đã được biết đến trong hàng nghìn năm, nhưng nguyên tố này chỉ được phát hiện vào năm 1808 bởi Sir Humphry Davy và bởi Gay-Lussac và Thenard.<br><br>Bo chưa được công nhận là một nguyên tố cho đến khi nó được phân lập vào năm 1808 bởi Sir Humphry Davy và bởi Joseph Louis Gay-Lussac và Louis Jacques Thénard.<br><br>Jöns Jakob Berzelius xác định bo là một nguyên tố vào năm 1824.
Compușii cu bor sunt cunoscuți de mii de ani, dar elementul nu a fost descoperit decât în 1808 de către Sir Humphry Davy, de către Gay-Lussac și de către Thenard. Borul nu a fost recunoscut ca element până când a fost izolat în 1808 de Sir Humphry Davy, Joseph Louis Gay-Lussac și Louis Jacques Thénard. Jöns Jakob Berzelius a identificat borul ca element în 1824.
‎Cacbon được phát hiện ở thời tiền sử và được biết đến trong các dạng thù hình như bồ hóng và than trong các nền văn minh cổ xưa nhất của loài người.<br><br>Năm 1772, Antonie Lavoisier đã cho thấy rằng kim cương là một dạng thù hình của Cacbon; khi ông đốt cháy mẫu than và kim cương và thấy rằng nó không tạo ra nước.<br><br>Năm 1779, Carl Wilhelm Scheele cho thấy than chì bị đốt cháy tạo thành điôxít cacbon và do đó phải là một dạng thù hình của cacbon.
Carbonul a fost descoperit în preistorie și era cunoscut sub formele de funingine și cărbune de la primele civilizații umane. În 1772, Antoine Lavoisier a arătat că diamantele sunt o formă de carbon; când a ars mostre de cărbune și diamant a constatat că niciunul nu produce apă. În 1779, Carl Wilhelm Scheele a arătat că grafitul a ars pentru a forma dioxid de carbon și deci trebuie să fie o altă formă de carbon.
Nitơ được coi là đã được phát hiện bởi bác sĩ người Scotland Daniel Rutherford vào năm 1772, ông gọi nó là không khí độc hại hoặc không khí cố định.<br><br>Nó cũng được nghiên cứu vào khoảng cùng thời điểm bởi Carl Wilhelm Scheele, Henry Cavendish và Joseph Priestley.<br><br>Vào năm 1790, nhà hóa học người Pháp Jean-Antoine-Claude Chaptal đặt tên cho nguyên tố này là nitrogen.
Se consideră că azotul a fost descoperit de medicul scoțian Daniel Rutherford în 1772, care l-a numit aer nociv sau aer fix. De asemenea, a fost studiat cam în același timp de Carl Wilhelm Scheele, Henry Cavendish și Joseph Priestley. În 1790, chimistul francez Jean-Antoine-Claude Chaptal a numit elementul azot.
Carl Wilhelm Scheele thu được ôxi bằng cách đun nóng oxit đồng và một hỗn hợp vài muối nitrat năm 1771, nhưng không công bố kết quả của mình cho đến năm 1777.<br><br>Joseph Priestley cũng chuẩn bị khí mới này năm 1774.<br><br>Tên Ôxi được đưa ra năm 1777 bởi Antoine Lavoisier, các thí nghiệm của ông với ôxi đã giúp loại trừ thuyết phlogiston về sự cháy và ăn mòn phổ biến vào thời đó.
Carl Wilhelm Scheele a obținut oxigen prin încălzirea oxidului mercuric și a nitraților în 1771, dar nu și-a publicat concluziile până în 1777. Joseph Priestley a pregătit și acest nou aer până în 1774. Numele de oxigen a fost inventat în 1777 de Antoine Lavoisier, ale cărui experimente cu oxigenul au contribuit la discreditarea teoriei atunci populară a flogistonului asupra combustiei și coroziunii.
Năm 1529, Georigius Agricola mô tả việc sử dụng fluorspar như một chất gây chảy.<br><br>Năm 1670 Schwandhard đã phát hiện thấy thủy tinh bị fluorspar ăn mòn khi được xử lý bằng axít.<br><br>Năm 1810, nhà khoa học Pháp, Andre-Marie Ampere đề xuất axit flohiđric là một hợp chất của hiđrô với một nguyên tố mới.<br><br>Cuối cùng vào năm 1886 flo đã được cô lập bởi Henri Moissan.
În 1529, Georigius Agricola a descris utilizarea fluorsparului ca un flux. În 1670, Heinrich Schwandhard a descoperit că sticla a fost gravată atunci când a fost expusă la fluorspar tratată cu acid. În 1810, omul de știință francez Andre-Marie Ampere a propus că acidul fluoric este un compus de hidrogen cu un element nou. Elementul a fost în cele din urmă izolat în 1886 de Henri Moissan.
Neon được phát hiện vào năm 1898 bởi các nhà hóa học người Anh Sir William Ramsay và Morris W. Travers ở London.<br><br>Nó được phát hiện khi Ramsay làm lạnh một mẫu không khí cho đến khi nó trở thành chất lỏng, sau đó làm ấm chất lỏng và thu giữ các khí khi chúng sôi.<br><br>Sau năm 1902, công ty của Georges Claude, Air Liquide, đã sản xuất neon với số lượng công nghiệp như một sản phẩm phụ của việc kinh doanh hóa lỏng không khí của ông.
Neonul a fost descoperit în 1898 de chimiștii britanici Sir William Ramsay și Morris W. Travers la Londra. A fost descoperit când Ramsay a răcit o mostră de aer până când a devenit lichid, apoi a încălzit lichidul și a captat gazele pe măsură ce se fierbeau. După 1902, compania lui Georges Claude, Air Liquide, producea cantități industriale de neon ca produs secundar al afacerii sale de lichefiere a aerului.
Ký hiệu hóa học của natri lần đầu tiên được công bố bởi Jöns Jakob Berzelius trong hệ thống ký hiệu nguyên tử của ông.<br><br>Đó là sự rút gọn của tên Latin mới của nguyên tố <i>natrium</i>, đề cập đến <i>natron</i> của Ai Cập, một loại muối khoáng tự nhiên chủ yếu được làm từ natri cacbonat hydrat hóa.<br><br>Năm 1807, Sir Humphry Davy đã phân lập natri lần đầu tiên bằng phương pháp điện phân natri hydroxit khô, đã được làm ẩm rất nhẹ.
Abrevierea chimică pentru sodiu a fost publicată pentru prima dată de Jöns Jakob Berzelius în sistemul său de simboluri atomice. Este o contracție a noului nume latin al elementului „natrium”, care se referă la egipteanul „natron”, o sare minerală naturală realizată în principal din carbonat de sodiu hidratat. În 1807, Sir Humphry Davy a izolat sodiul pentru prima dată prin electroliza hidroxidului de sodiu uscat, care fusese foarte ușor umezit.
Nhà hóa học người Scotland Joseph Black công nhận magiê là một nguyên tố vào năm 1755.<br><br>Magiê lần đầu tiên được phân lập bởi Sir Humphry Davy vào năm 1808, tại London.<br><br>Ông đã sử dụng phương pháp điện phân trên hỗn hợp magiê oxit và thủy ngân oxit.<br><br>Antoine Bussy đã điều chế nó ở dạng liên kết vào năm 1831.
Chimistul scoțian Joseph Black a recunoscut magneziul ca element în 1755. Magneziul a fost izolat pentru prima dată de Sir Humphry Davy în 1808, la Londra. El a folosit electroliza pe un amestec de oxid de magneziu și oxid mercuric. Antoine Bussy a pregătit-o într-o formă coerentă în 1831.
Năm 1761, Guyton de Morveau đề xuất tên alumine cho bazơ trong phèn, và Antoine Lavoisier, vào năm 1787, cho rằng đây là oxit của một kim loại chưa được phát hiện.<br><br>Sir Humphry Davy xác định sự tồn tại của một kim loại bazơ của phèn vào năm 1808.<br><br>Hans Christian Ørsted là người đầu tiên phân lập nhôm kim loại ở dạng không tinh khiết vào năm 1825.<br><br>Friedrich Wöhler thường được ghi nhận là người đã phân lập kim loại này vào năm 1827.
Antoine Lavoisier a prezis, în 1787, că alumina este un oxid al unui element nedescoperit, iar, în 1808, Humphry Davy a încercat să-l producă.<br><br>Deși acesta nu a reușit să izoleze elementul, a dat sugestia ca numele eventualului element să fie aluminiu.<br><br>Hans Christian Ørsted a fost primul care a reușit să izoleze aluminiu metalic în anul 1825.
Năm 1800, Sir Humphry Davy cho rằng silic là một hợp chất chứ không phải một nguyên tố; nhưng vào năm 1811, Gay Lussac và Louis Jacques Thénard có thể đã điều chế silic vô định hình không tinh khiết bằng cách nung nóng kali với silic tetraflorua.<br><br>Năm 1824, Jöns Jakob Berzelius điều chế silic vô định hình bằng cùng phương pháp chung.<br><br>Henri Deville vào năm 1854 lần đầu tiên điều chế silic tinh thể, dạng thù hình thứ hai của nguyên tố này.
În 1800, Sir Humphry Davy credea că silica este un compus și nu un element; dar în 1811, Gay Lussac și Louis Jacques Thénard au preparat probabil siliciu amorf impur prin încălzirea potasiului cu tetrafluorură de siliciu. În 1824 Jöns Jakob Berzelius a preparat siliciu amorf prin aceeași metodă generală. Henri Deville a preparat în 1854 prima dată siliciu cristalin, a doua formă alotropică a elementului.
Hennig Brand phát hiện ra phốt pho vào năm 1669, tại Hamburg, Đức, điều chế nó từ nước tiểu.<br><br>Năm 1769, Johan Gottlieb Gahn và Carl Wilhelm Scheele chỉ ra rằng canxi photphat được tìm thấy trong xương, và họ thu được phốt pho nguyên tố từ tro xương.<br><br>Antoine Lavoisier công nhận phốt pho là một nguyên tố vào năm 1777.
Hennig Brand a descoperit fosforul în 1669, la Hamburg, Germania, preparându-l din urină. În 1769, Johan Gottlieb Gahn și Carl Wilhelm Scheele au arătat că fosfatul de calciu se găsește în oase și au obținut fosfor elementar din cenușa osoasă. Antoine Lavoisier a recunoscut fosforul ca element în 1777.
Vào thế kỷ thứ 3, người Trung Quốc phát hiện ra rằng lưu huỳnh có thể được chiết xuất từ pyrit.<br><br>Các nhà giả kim Ấn Độ đã viết rất nhiều về việc sử dụng lưu huỳnh trong các hoạt động giả kim với thủy ngân, từ thế kỷ thứ tám sau Công nguyên trở đi.<br><br>Năm 1777, Antoine Lavoisier đã giúp thuyết phục cộng đồng khoa học rằng lưu huỳnh là một nguyên tố, không phải một hợp chất.
Până în secolul al III-lea, chinezii au descoperit că sulful poate fi extras din pirită. Alchimiștii indieni au scris pe larg despre utilizarea sulfului în operațiile alchimice cu mercur, începând cu secolul al VIII-lea d.Hr. În 1777, Antoine Lavoisier a ajutat la convingerea comunității științifice că sulful este un element, nu un compus.
Khoảng năm 1630, clo được công nhận như là một chất khí bởi nhà hóa học người Bỉ và bác sĩ Jan Baptist van Helmont.<br><br>Nguyên tố clo ban đầu được chuẩn bị sẵn sàng và nghiên cứu năm 1774 bởi nhà hóa học người Thụy Điển Carl Wilhelm Scheele.<br><br>Năm 1810, ông đã sai lầm khi cho rằng clo là một hợp chất có chứa oxi.<br><br>Clo được đặt tên năm 1810 bởi Humphry Davy, là người khẳng định nó là một nguyên tố.
În jurul anului 1630, clorul a fost recunoscut ca gaz de către chimistul și medicul belgian Jan Baptist van Helmont.<br><br>Clorul elementar a fost preparat și studiat pentru prima dată în 1774 de chimistul suedez Carl Wilhelm Scheele.<br><br>Până în 1810, consensul științific a fost că clorul era de fapt un compus care conținea oxigen.<br><br>În 1811, Sir Humphry Davy a concluzionat că noul gaz este de fapt un element nou.
Argon được Henry Cavendish nghi ngờ có trong không khí vào năm 1785.<br><br>Nó không được phân lập cho đến năm 1894 bởi Lord Rayleigh và Sir William Ramsay ở Scotland.<br><br>Argon trở thành thành viên đầu tiên của các khí trơ được phát hiện.<br><br>Năm 1957, IUPAC đồng ý rằng ký hiệu nên thay đổi từ A thành Ar.
Argonul a fost suspectat ca ar fi prezent în aer de către Henry Cavendish în 1785. Nu a fost izolat până în 1894 de Lord Rayleigh și Sir William Ramsay în Scoția. Argonul a devenit primul membru al gazelor nobile care a fost descoperit. În 1957, IUPAC a fost de acord ca simbolul să se schimbe de la A la Ar.
Ký hiệu K của kali đến từ 'kalium', tên của nguyên tố này ở Đức và Scandinavia.<br><br>Kali kim loại lần đầu tiên được phân lập vào năm 1807 bởi Sir Humphry Davy, người đã điều chế nó từ kali hydroxit ăn da bằng cách sử dụng điện phân muối nóng chảy với pin Volta mới được phát hiện.<br><br>Kali là kim loại đầu tiên được phân lập bằng phương pháp điện phân.
Simbolul K al potasiului provine de la „kalium”, denumirea elementului din Germania și Scandinavia. Metalul de potasiu a fost izolat pentru prima dată în 1807 de Sir Humphry Davy, care l-a derivat din potasiu caustic prin utilizarea electrolizei sării topite cu noua grămadă voltaică descoperită. Potasiul a fost primul metal care a fost izolat prin electroliză.
Canxi đã được biết đến từ thế kỷ đầu tiên khi người La Mã cổ đại điều chế vôi dưới dạng canxi oxit.<br><br>Canxi lần đầu tiên được phân lập bởi Sir Humphry Davy vào năm 1808 khi ông điện phân hỗn hợp vôi và thủy ngân oxit.<br><br>Davy đang cố gắng phân lập canxi; khi ông nghe tin rằng Jöns Jakob Berzelius và Pontin đã điều chế hỗn hống canxi bằng cách điện phân vôi trong thủy ngân, ông đã tự mình thử nghiệm.
Calciul era cunoscut încă din primul secol, când romanii antici pregăteau varul ca oxid de calciu. Calciul a fost izolat pentru prima dată de Sir Humphry Davy în 1808, când acesta a electrolizat un amestec de var și oxid mercuric. Davy încerca să izoleze calciul; când a auzit că Jöns Jakob Berzelius și Pontin au preparat amalgam de calciu prin electrolizarea varului în mercur, a încercat și el.
Năm 1879, Lars Fredrik Nilson và nhóm của ông đã phát hiện ra scandium trong các khoáng chất euxenite và gadolinite. Nilson đã điều chế được 2 gam scandium oxide có độ tinh khiết cao. Per Teodor Cleve đã chứng minh rằng scandium có các tính chất tương tự như những gì Mendeleev đã dự đoán cho eka-boron. Scandium kim loại lần đầu tiên được điều chế vào năm 1937 bởi Fischer và các đồng nghiệp.
În 1879, Lars Fredrik Nilson și echipa sa au detectat scandiu în mineralele euxenită și gadolinită.<br><br>Nilson a preparat 2 grame de oxid de scandiu de înaltă puritate.<br><br>Per Teodor Cleve a arătat că scandiul avea proprietăți similare cu cele prezise de Mendeleev pentru eka-bor.<br><br>Scandiul metalic a fost preparat pentru prima dată în 1937 de Fischer și colegii săi.
William Gregor tìm thấy oxide của titan trong ilmenite vào năm 1791. Martin Heinrich Klaproth độc lập phát hiện ra nguyên tố này trong rutile vào năm 1795 và đặt tên cho nó. Dạng kim loại tinh khiết chỉ được thu được vào năm 1910 bởi Matthew A. Hunter. Năm 1936, Quy trình Kroll đã làm cho việc sản xuất titan thương mại trở nên khả thi.
William Gregor a găsit oxidul de titan în ilmenit în 1791. Martin Heinrich Klaproth a descoperit independent elementul din rutil în 1795 și l-a denumit. Forma metalică pură a fost obținută abia în 1910 de către Matthew A. Hunter. În 1936, Procesul Kroll a făcut posibilă producția comercială de titan.
Vanadi ban đầu được phát hiện bởi Andrés Manuel del Río vào năm 1801. Năm 1805, nhà hóa học người Pháp Hippolyte Victor Collet-Descotils đã sai lầm khi tuyên bố rằng nguyên tố mới của del Río chỉ là một mẫu crom không tinh khiết. Năm 1831, nhà hóa học Thụy Điển Nils Gabriel Sefström tái phát hiện ra nguyên tố này trong một oxide mới khi làm việc với quặng sắt. Cùng năm đó, Friedrich Wöhler đã xác nhận công trình nghiên cứu trước đó của del Río.
Vanadiul a fost descoperit inițial de Andrés Manuel del Río în 1801. În 1805, chimistul francez Hippolyte Victor Collet-Descotils a declarat în mod greșit că noul element al lui del Río era doar o probă impură de crom. În 1831, chimistul suedez Nils Gabriel Sefström a redescoperit elementul dintr-un nou oxid pe care l-a găsit în timp ce lucra cu minereuri de fier. Mai târziu în același an, Friedrich Wöhler a confirmat lucrările anterioare ale lui Del Río.
Năm 1797, Louis Nicolas Vauquelin nhận được các mẫu quặng crocoite. Năm 1798, Vauquelin phát hiện ra rằng ông có thể phân lập crom kim loại bằng cách nung oxide trong lò than củi, khiến ông trở thành người phát hiện ra nguyên tố này. Vauquelin cũng có thể phát hiện dấu vết của crom trong các đá quý như ruby hoặc ngọc lục bảo.
No translations found
Vào giữa thế kỷ 18, nhà hóa học Thụy Điển Carl Wilhelm Scheele đã sử dụng pyrolusite để sản xuất clo. Scheele và những người khác đã biết rằng pyrolusite chứa một nguyên tố mới, nhưng họ không thể phân lập nó. Johan Gottlieb Gahn là người đầu tiên phân lập được một mẫu mangan kim loại không tinh khiết vào năm 1774, bằng cách khử dioxide với carbon.
No translations found
Sắt đầu tiên được con người sử dụng có thể đến từ thiên thạch. Các vật thể sắt cổ nhất được con người sử dụng là một số hạt chuỗi làm từ sắt thiên thạch, được làm ở Ai Cập vào khoảng 4000 trước Công nguyên. Việc phát hiện ra luyện kim vào khoảng 3000 trước Công nguyên đã dẫn đến sự khởi đầu của thời đại sắt vào khoảng 1200 trước Công nguyên và việc sử dụng sắt phổ biến cho công cụ và vũ khí.
No translations found
Các hợp chất coban đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ để tạo màu xanh đậm cho thủy tinh, men và gốm sứ. Nguyên tố này lần đầu tiên được phân lập bởi nhà hóa học Thụy Điển George Brandt vào năm 1735. Ông đã chứng minh rằng chính sự hiện diện của nguyên tố coban đã gây ra màu xanh trong thủy tinh, không phải bismuth như người ta nghĩ trước đây.
No translations found
Các hiện vật được làm từ thiên thạch kim loại đã được tìm thấy có niên đại từ khoảng 5000 trước Công nguyên. Năm 1751, Nam tước Axel Fredrik Cronstedt đã cố gắng chiết xuất đồng từ kupfernickel và thay vào đó tạo ra kim loại màu trắng. Vào đầu thế kỷ 20, Ludwig Mond đã cấp bằng sáng chế cho quy trình sử dụng nickel carbonyl để tinh chế nickel.
No translations found
Đồng tồn tại tự nhiên dưới dạng đồng nguyên chất và đã được biết đến bởi một số nền văn minh cổ xưa nhất được ghi nhận. Ước tính sớm nhất về việc phát hiện ra đồng cho thấy khoảng 9000 trước Công nguyên ở Trung Đông. Nó là một trong những vật liệu quan trọng nhất đối với con người trong suốt thời đại đồng và đồng thau.
No translations found
Kẽm kim loại được sản xuất vào thế kỷ 13 sau Công nguyên ở Ấn Độ bằng cách khử calamine với các chất hữu cơ như len. Kim loại này được tái phát hiện ở châu Âu bởi Andreas Sigismund Marggraf vào năm 1746. Ông đã nung nóng hỗn hợp quặng calamine và carbon trong một bình kín không có đồng để sản xuất kim loại.
Zincul a fost extras ca metal încă din Antichitate (de dinainte de 1000 î.Hr.) de către metalurgiștii indieni, dar natura adevărată a acestui metal nu era cunoscută în timpurile antic.<br><br>A fost identificat ca fiind un metal de către metalurgistul Rasaratna Samuccaya în anul 800 și de către alchimistul Paracelsus în 1526.<br><br>Izolat prima dată de către Andreas Sigismund Marggraf în 1746.
Năm 1871, sự tồn tại của gali lần đầu tiên được dự đoán bởi nhà hóa học Nga Dmitri Mendeleev và được gọi là nguyên tố eka-nhôm. Gali được phát hiện bằng phương pháp quang phổ bởi nhà hóa học Pháp Paul Emile Lecoq de Boisbaudran vào năm 1875 thông qua phổ đặc trưng của nó trong quá trình kiểm tra một mẫu sphalerite. Sau đó trong năm đó, Lecoq đã thu được kim loại tự do bằng cách điện phân hydroxide của nó trong dung dịch kali hydroxide.
No translations found
Năm 1869, Dmitri Mendeleev đã dự đoán sự tồn tại và một số tính chất của nó dựa trên vị trí của nó trong bảng tuần hoàn của ông và gọi nguyên tố đó là eka-silicon. Năm 1886, Clemens Winkler tìm thấy nguyên tố mới cùng với bạc và lưu huỳnh trong một khoáng chất hiếm gọi là argyrodite. Các hợp kim silicon-germanium đầu tiên được thu được vào năm 1955.
No translations found

Periodic Table invites you to become a translator to help them translate their Element Details project.

Sign up for free or login to start contributing.